Nhận diện 27 biểu hiện suy thoái, 'tự diễn biến', 'tự chuyển hóa'

Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa XII do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 30/10 mới đây về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và đề ra các giải pháp khắc phục.

1. Danh mục 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống

1.1. Chín biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị

1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.

3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị, lười học tập chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

4) Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao.

5) Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.

6) Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một neri; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu.

7) Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.

8) Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác, chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh.

9) Vướng vào "tư duy nhiệm kỳ", chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích.

1.2. Chín (9) biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống

1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.

2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền, độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.

3) Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.

4) Mắc bệnh "thành tích", háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, "đánh bóng" tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; "chạy thành tích", "chạy khen thưởng", "chạy danh hiệu".

5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.

6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên...; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tùy tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.

7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.

8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội.. Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.

9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội.

1.3. Chín biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ

1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng."

2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự". Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.

6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.

7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.

8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học- nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.

9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.

2. Ưu điểm, hạn chế

Đại hội XII của Đảng chỉ rõ 6 nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt hàng đầu: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Đảng đã thẳng thắn chỉ ra 4 nguy cơ, trong đó có tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến tinh vi, phức tạp.

Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay cho thấy:

Ưu điểm

Toàn Đảng đã thực hiện từ trên xuống và đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, tạo chuyển biến tích cực trong cả hệ thống chính trị, góp phần cảnh báo, răn đe, góp phần siết lại kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, ngăn chặn trên một số tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã có tác động góp phần thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân.

Đại hội XII Đảng cũng tiếp tục nhấn mạnh kiên trì thực hiện Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Nghị quyết đưa ra 27 biểu hiện của 3 nhóm suy thoái về tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống; những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Đây là quyết tâm chính trị cao của Đảng nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.

Hạn chế

Nội dung sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi còn đơn điệu, hình thức, kém hiệu quả. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu, tệ liệt. Tự phê bình và phê bình còn nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, a dua, xuyên tạc, bôi đen. Một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình khi xảy ra sai phạm. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoạch, bổ nhiệm, chạy khen thưởng, chạy tội, tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm còn phổ biến với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp gây bức xúc trong dư luận. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng chưa nghiêm, chưa đủ sức răn đe, giáo dục, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, có dấu hiệu dung túng bao che cho sai phạm, nặng bệnh thành tích, sợ mất thi đua, lợi dụng dân chủ bỏ phiếu kín để cố ý làm trái các quy định của Đảng và Nhà nước. Đây là dấu hiệu của sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.

3. Nguyên nhân, giải pháp

3.1 Nguyên nhân

Không ít đảng viên thiếu tu dưỡng rèn luyện về đạo đức, số khác lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước trước những tác động từ bên ngoài sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi đồng tiền, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước nhân dân. Người đứng đầu cấp ủy năng lực hạn chế trong việc cụ thể hóa, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng thành chương trình hành động. Kể hoạch tổ chức thực hiện ở địa phương, đơn vị còn chung chung, làm cho có, chỉ đạo thiếu quyết liệt, nói một đằng làm một nẻo hoặc nói mà không làm, nói nhiều làm ít. Việc xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên vi phạm còn nương nhẹ, nể nang, thiếu cương quyết.

3.2 Giải pháp

Một là, người đứng đầu cấp ủy phải thực sự gương mẫu về mọi mặt để các đảng viên noi theo và chính họ là "ảnh thật" của chiếc gương tổ chức cơ sở đảng.

Họ phải nhận thức sâu sắc rằng "tự diễn biến" sẽ dẫn đến "tự chuyển hóa", từ sự biến đổi về lượng ắt sẽ biến đổi về chất và hậu quả tất yếu sẽ mục rũa từ bên trong, cấp ủy sẽ mất kiểm soát, mất vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng dẫn đến tê liệt không lãnh đạo, quản lý được. Do đó người đứng đầu cấp ủy phải là người chấp nhận hy sinh vô điều kiện cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng. Vai trò rất quan trọng không thể thiếu và mang tính quyết định của ban thường vụ cấp ủy cấp trên trực tiếp trong công tác đề bạt, tiến cử, bầu cử, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ, tìm chọn người đứng đầu xứng đáng nhất.

Hai là, nhận diện chính xác các biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã nhận diện 27 biểu hiện để các đảng viên tự soi rọi bản thân mình và tự giác khắc phục, sửa chữa về suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống. "Tự diễn biến", "tư chuyển hóa" được sắp xếp theo 3 nhóm, nhưng để chi bộ chỉ được đảng viên nào vi phạm biểu hiện nào thực sự không phải dễ. Cách nhận diện có thể qua nhiều kênh thông tin: phản ánh của người dân, báo chí, phát ngôn, nói mà không làm, nói một đằng làm một nẻo, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm, a dua, dung túng bao che cho sai phạm, lợi ích nhóm... Khi phát hiện phải có chế tài xử lý nghiêm, cấp ủy cấp trên phải kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức kịp thời không chờ hết tuổi nghỉ hưu hoặc hết nhiệm kỳ công tác những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu về năng lực, kém về phẩm chất, điều hành theo lối mòn tư duy ý chí không sáng tạo, kém hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Đối với đảng viên không giữ chức vụ, chi bộ nhắc nhở bằng văn bản và yêu cầu xây dựng về kế hoạch khắc phục sửa chữa khuyết điểm, có lộ trình cụ thể. Nếu vi phạm lần 2 thì động viên làm đơn xin ra khỏi Đảng.

Ba là, đổi mới nội dung và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.

Sinh hoạt Chi bộ hàng tháng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Việc đổi mới nội dung, hình thức và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ phải gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Mọi đảng viên nâng cao nhận thức, tự giác chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện tốt nghị quyết của chi bộ và của cấp ủy cấp trên; bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu để chi bộ thực sự là nơi lãnh đạo, quản lý, giáo dục, rèn luyện và bồi dưỡng cán bộ, đảng viên. Thường xuyên tuyên truyền các tác phẩm của chủ tịch Hồ Chí Minh, có kỹ năng sư phạm, báo cáo có cơ sở lý luận và có tính thuyết phục cao. Tuyên truyền gắn liền với thực tiễn. Xây dựng, ban hành quy định về tự phê bình và phê bình trên tinh thần tự giác, nghiêm túc, nhằm khắc phục triệt để tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, phê bình kiểu nịnh bợ nhau, nói lấy lòng, đồng thuận xuôi chiều, tự phê bình thì quanh co che giấu sai phạm, khuyết điểm rồi đổ lỗi do khách quan... Có cơ chế bảo vệ người thẳng thắn, dám dấu tranh vì lẽ phải, vì tập thể, vì cái chung, vì mục tiêu cao cả của Đảng.

Bốn là, nâng cao chất lượng đảng viên, cho ra khỏi Đảng những trường hợp không còn đủ tiêu chuẩn.

Chống khuynh hướng chạy theo số lượng mà coi nhẹ chất lượng. Vấn đề cốt lõi của việc xây dựng tổ chức Đảng là phải xây dựng chất lượng đội ngũ đảng viên. Mọi biểu hiện xem nhe, thái độ không nghiêm túc, không khoa học trong phát triển đảng viên là nguồn gốc lỏng lẻo về tổ chức, giảm sút năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, dẫn đến làm biến chất, tan rã Đảng. Tiến hành rà soát, sàng lọc và đưa ngay những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.

Post a Comment

Previous Post Next Post